Ngành dịch vụ được coi là mũi nhọn giúp cho nền kinh tế tăng trưởng thần tốc. Các công ty trong ngành này thực hiện những nhiệm vụ hữu ích cho khách hàng của họ. Để hiểu rõ hơn về ngành dịch vụ là gì, cùng theo dõi ngay bài viết dưới đây của GOODVN nhé!
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 4 Luật giá 2012 có quy định về khái niệm dịch vụ như sau: “Dịch vụ là hàng hóa có tính vô hình, quá trình sản xuất và tiêu dùng không tách rời nhau, bao gồm các loại dịch vụ trong hệ thống ngành sản phẩm Việt Nam theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, dịch vụ là sản phẩm có tính vô hình và là hoạt động sáng tạo có tính đặc thù riêng của con người trong xã hội phát triển, có sự cạnh tranh cao, có yếu tố bùng phát về công nghệ, minh bạch về pháp luật, minh bạch chính sách của chính quyền.
Ngành dịch vụ là ngành công nghiệp không khói mà các sản phẩm tạo ra mang tính phi vật chất và không gây hại đến môi trường. Với mục đích hình thành là để phục vụ nhu cầu của con người nên phụ thuộc vào mức độ sử dụng khi khách hàng hưởng thụ các dịch vụ đó, mang lại hiệu quả kinh tế cao so với các ngành khác.
Sự phân loại dịch vụ ở các lĩnh vực như: Kinh doanh (Tài chính, bảo hiểm, bất động sản, vận tải…), tiêu dùng (Hoạt động buôn bán, du lịch, dịch vụ cá nhân…), dịch vụ công (Hành chính công, hoạt động đoàn thể). Nhờ sự phân loại và phát triển này đã thu hút nguồn lao động và tạo việc làm cho nhiều người. Đồng thời khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên, các di tích lịch sử - văn hóa, các thành tựu khoa học - kĩ thuật.
Dịch vụ được cấu trúc bằng cách xác lập danh mục góp vốn đầu tư và được chia nhỏ hoặc nhóm lại dựa trên những loại sản phẩm và dịch vụ của nó. Nhóm hoặc phân loại này được gọi là Cấu trúc dịch vụ, bao gồm:
Ngày 17/05/2011, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 28/2011/QĐ-TTg ban hành Danh mục dịch vụ xuất, nhập khẩu Việt Nam gồm 12 nhóm ngành dịch vụ, mã hóa bằng 04 chữ số. Cụ thể 12 nhóm ngành dịch vụ bao gồm:
+ Dịch vụ vận tải (mã 2050)
+ Dịch vụ du lịch (mã 2360)
+ Dịch vụ bưu chính và viễn thông (mã 2450)
+ Dịch vụ xây dựng (mã 2490)
+ Dịch vụ bảo hiểm (mã 2530)
+ Dịch vụ tài chính (mã 2600)
+ Dịch vụ máy tính và thông tin (mã 2620)
+ Phí mua, bán quyền sử dụng giấy phép, thương hiệu, bản quyền (mã 2660)
+ Dịch vụ kinh doanh khác (mã 2680)
+ Dịch vụ cá nhân, văn hóa và giải trí (mã 2870)
+ Dịch vụ Chính phủ, chưa được phân loại ở nơi khác (mã 2910)
+ Dịch vụ Logistic (mã 9000)
Mỗi nhóm ngành dịch vụ trong 12 nhóm ngành trên đều được chi tiết thành các phân nhóm, sản phẩm và được mã hóa bằng bốn chữ số. Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm ban hành thông tư quy định nội dung danh mục dịch vụ xuất, nhập khẩu, hướng dẫn và theo dõi tình hình thực hiện và trình Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung.
Dịch vụ có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong đời sống tất cả chúng ta. Đặc biệt, trong thời đại 4.0 ngày nay thì vai trò của dịch vụ vô cùng to lớn. Dịch vụ có vai trò rộng khắp những mặt từ kinh tế tài chính, sản xuất, xã hội.
SERVQUAL là phương pháp để xác định và giải quyết các vấn đề liên quan đến chất lượng dịch vụ. Mô hình này được trình bày bởi A. Parasuraman, V. Zeithaml và L. Berry vào năm 1988. Ý tưởng chính dựa trên 5 khoảng cách chủ yếu liên quan đến nhận thức về quản lý chất lượng dịch vụ và những công việc liên quan đến phân phối dịch vụ cho khách hàng, dẫn đến chất lượng dịch vụ thấp hơn mong đợi.
5 khoảng cách được đề cập đến là:
Mô hình đo lường chất lượng dịch vụ RATER là một sự phát triển của phương pháp SERVQUAL. Ý tưởng chính dựa trên 5 lỗ hổng, dẫn đến chất lượng dịch vụ thấp hơn mong đợi. Các tác giả đề xuất rằng sự khác biệt giữa chất lượng mong đợi và chất lượng cảm nhận nên được đánh giá theo 5 điểm sau:
SERVPERF được tạo ra trên cơ sở phê bình về dịch vụ của J.J. Cronin và S.A Taylor vào năm 1994. Họ cho rằng nghiên cứu của Parasuraman về mối quan hệ giữa chất lượng mong đợi và chất lượng được trải nghiệm không phải là cách tiếp cận đúng đắn để đánh giá chất lượng.
SERVPERF đo lường chất lượng như một thái độ, không phải sự hài lòng. Tuy nhiên, nó sử dụng một ý tưởng về chất lượng dịch vụ nhận thức dẫn đến sự hài lòng. SERVPERF là một sửa đổi của SERVQUAL và do đó sử dụng các danh mục tương tự để đánh giá chất lượng dịch vụ (mô hình RATER).
Gummesson đề xuất một mô hình trong đó chất lượng dịch vụ bao gồm chất lượng cảm nhận và sự hài lòng. Dựa trên mô hình Gronroos, ông đã mô tả bốn chiều chất lượng gồm:
Nhiều công ty kinh doanh dịch vụ giống nhau đã tạo ra tính cạnh tranh quyết liệt trên thị trường. Vì vậy, để tồn tại và phát triển thì mỗi nhà quản lý phải tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm dịch vụ của mình.
Đây là hoạt động marketing mà bất kì các cơ sở kinh doanh nào cũng cần thực hiện trong thời đại hiện nay. Vì hình thức quảng cáo ngày càng đa dạng với cách thức tiếp cận người dùng nhờ vào các kênh truyền thông cực kỳ hiệu quả.
Chất lượng và giá cả là vấn đề cần được quan tâm hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh như hiện nay. Bởi vì người tiêu dùng có quyền lựa chọn sử dụng dịch vụ khác nhau để phù hợp với điều kiện của họ. Thương hiệu nào có chất lượng tốt hoặc giá cả phải chăng thì khách hàng sẽ không ngần ngại tìm đến.
Dịch vụ là ngành chú trọng đến thái độ phục vụ hơn bao giờ hết. Vì thái độ ứng xử của nhân viên có thể tác động đến khách hàng lựa chọn hoặc từ chối dịch vụ. Do đó, việc đào tạo bộ phận bán hàng và chăm sóc khách hàng luôn được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm.
Việc làm này là để giữ chân khách hàng để họ nhớ đến dịch vụ. Trong suốt quá trình đó sẽ cho bạn hiểu tâm lý khách hàng, biết được họ muốn gì và doanh nghiệp cần làm gì để đáp ứng chất lượng tiêu dùng.
Trên đây là những thông tin hữu ích về ngành dịch vụ - nhóm ngành đang hot trên thị trường hiện nay. Hy vọng qua bài viết này, các bạn có thể hiểu ngành dịch vụ là gì và đạt hiệu quả trong hoạt động ngành dịch vụ.
Văn phòng chứng nhận GOODVN hỗ trợ khách hàng trong việc áp dụng thực hiện và đạt chứng nhận ISO. Hãy gọi ngay cho chúng tôi để được hỗ trợ tốt nhất!
LIÊN HỆ: 0945.001.005 - 0963.831.555 - 02466.82.0505
CHÚNG TÔI Ở ĐÂY ĐỂ PHỤC VỤ BẠN !
Link nội dung: https://vinaenter.edu.vn/dich-vu-bao-gom-nhung-nganh-nao-a57090.html