Bất cứ ai cũng có thể bị ung thư vú, bất kể giới tính và làm sao để phòng ngừa ung thư vú tái phát là mối quan tâm chung của những người bệnh ung thư vú giai đoạn đầu. Vấn đề này sẽ được bác sĩ CKII Đỗ Thanh Huy Hoàng, Khoa Ngoại Vú, BVĐK Tâm Anh TP.HCM giải đáp qua bài viết sau.
Cần ngăn ngừa ung thư vú tái phát vì có tới 20% - 30% trường hợp tái phát bệnh vào một thời điểm nào đó sau điều trị lần đầu. Các phương pháp điều trị ung thư vú có thể làm giảm nguy cơ tái phát như: hóa trị, điều trị nội tiết tố, liệu pháp nhắm mục tiêu HER2, bisphosphonates và xạ trị. Nhờ đó đã ngăn ngừa nhiều đợt tái phát. [1]
Tuy nhiên, người bệnh có thể tự mình phòng ngừa ung thư vú tái phát bằng một số phương pháp đơn giản. Đó là duy trì cân nặng khỏe mạnh và tập thể dục là điều hiển nhiên, đồng thời ngủ đủ giấc, tăng tần suất không ăn giữa bữa tối và bữa sáng (nhịn ăn gián đoạn)… có thể giảm tỷ lệ tái phát và cải thiện sức khỏe nói chung.
Không thể đánh giá thấp tầm quan trọng của việc phòng ngừa ung thư vú tái phát (khi có thể). Hầu hết người bệnh ung thư vú di căn (ung thư vú giai đoạn IV) không có khối u di căn tại thời điểm chẩn đoán. Trên thực tế, khoảng 94% - 95% số người bệnh ung thư vú di căn ban đầu được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú giai đoạn đầu (giai đoạn I, giai đoạn II và giai đoạn III) sau đó tái phát. Ngược lại, ung thư vú di căn là nguyên nhân gây phần lớn các ca tử vong liên quan đến ung thư vú. [2]
Không giống như quan niệm thông thường cho rằng những người bệnh sống sau 5 năm là được “chữa khỏi”, một số bệnh ung thư vú, đặc biệt là ung thư vú dương tính với thụ thể hormone (dương tính với thụ thể estrogen), có thể tái phát trong nhiều năm và thậm chí nhiều thập kỷ sau đó. Trên thực tế, ung thư vú giai đoạn đầu dương tính với thụ thể estrogen có nhiều khả năng tái phát sau 5-10 năm sau khi được chẩn đoán.
Một nghiên cứu năm 2017 tại JAMA được thực hiện ở hơn 62.000 phụ nữ chuyển giới bị ung thư vú dương tính với thụ thể estrogen trong khoảng 20 năm. Tất cả phụ nữ đều được điều trị nội tiết (tamoxifen hoặc thuốc ức chế aromatase) trong 5 năm và không bị ung thư khi ngừng dùng thuốc. Trong 15 năm tiếp theo, một số phụ nữ này đã xuất hiện các đợt tái phát ung thư. [3]
Tái phát đôi khi xảy ra cục bộ ở vú hoặc các hạch bạch huyết gần đó, nhưng thường là tái phát xa, xuất hiện ở các cơ quan xa của cơ thể như: xương, phổi, gan, não… Một khi tái phát ở các cơ quan xa, ung thư vú không thể chữa khỏi và thời gian sống trung bình của ung thư vú giai đoạn IV chỉ khoảng 3 năm sau điều trị.
“Làm sao để ung thư vú không tái phát” luôn là mối quan tâm của người bệnh ung thư vú giai đoạn đầu sau điều trị. Một số cách phòng ngừa ung thư vú tái phát cho phụ nữ bao gồm:
Tập thể dục hoặc tăng cường hoạt động thể chất là cách ngăn ngừa ung thư vú tái phát được nhắc đến thường xuyên đến mức nhiều người dễ trở nên miễn nhiễm với thông tin này. Chẳng phải tập thể dục được coi là phương pháp chữa trị hầu hết mọi thứ sao? Tuy nhiên, việc phải đối mặt với sự mệt mỏi do ung thư có thể kéo dài nhiều năm sau điều trị có thể làm cho người bệnh nghĩ đến cách phòng ngừa khác.
Tuy nhiên, trong tất cả các biện pháp phòng ung thư vú tái phát, hoạt động thể chất có nhiều minh chứng cho thấy sự hiệu quả nhất. Tập thể dục vừa phải (chẳng hạn như đi bộ với tốc độ 3,2-4,8km/giờ) trong 3-5 giờ/tuần có thể giảm nguy cơ tái phát tới 50%. Điều này tương tự như việc giảm nguy cơ với tamoxifen hoặc chất ức chế aromatase.
(Tuy nhiên, không nên tập thể dục thay thế thuốc mà chỉ thực hiện như một biện pháp hỗ trợ để hy vọng phòng ngừa ung thư vú tái phát hơn nữa)
Người bệnh nên ưu tiên những hoạt động mà bản thân yêu thích. Một số người thích làm vườn, leo núi và cả đi bộ.
Người bệnh nên tìm một “người đồng hành” để cùng hoạt động, tăng hứng thú tập luyện và cải thiện hiệu quả phòng ngừa. Một số nghiên cứu cho thấy hoạt động xã hội nhiều hơn còn giúp tăng khả năng sống sau điều trị ung thư vú.
Duy trì cân nặng khỏe mạnh (hoặc giảm cân nếu cần) giúp giảm nguy cơ tái phát ung thư vú. Việc giảm cân không chỉ cần tập thể dục mà còn nhịn ăn gián đoạn, tăng cường chất xơ trong chế độ ăn uống và cải thiện sự đa dạng của vi khuẩn trong ruột.
Mặc dù có một số tranh cãi về mức độ vitamin D và ung thư vú, một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng phụ nữ có nồng độ 25-hydroxy vitamin D (dạng lưu hành chủ yếu của vitamin D trong cơ thể) thấp có nguy cơ tái phát cao hơn. Tuy nhiên, vitamin D không những có công dụng trong việc chống tái phát ung thư vú mà còn cải thiện chất lượng sống cho người bệnh ung thư vú.
Xét nghiệm máu đơn giản có thể xác định mức độ vitamin D trong cơ thể. Mức 50nmol/L hoặc cao hơn (nhưng không quá cao) là tối ưu ở những người bệnh ung thư.
Việc bổ sung vitamin D từ nguồn thực phẩm là một thách thức, ít nhất phải đạt mức tối ưu 2000 IU/ngày (mức phù hợp với người bệnh ung thư nhưng cao hơn đáng kể so với mức được yêu cầu hàng ngày).
Ánh nắng mặt trời cũng là nguồn cung cấp vitamin D, tuy nhiên cần tránh tiếp xúc quá nhiều. (Trung bình mỗi ngày phơi nắng 15 phút trong trang phục mùa hè, không dùng kem chống nắng có thể hấp thụ tới 5.000 IU vitamin D).
Nếu bác sĩ khuyến nghị bổ sung vitamin D để phòng ngừa ung thư vú tái phát, người bệnh nên mua sản phẩm tốt để giảm phơi nhiễm thủy ngân. Điều quan trọng là dùng với số lượng vừa đủ để hạn chế một số tác dụng phụ tiềm ẩn của việc dùng quá nhiều vitamin D, trong đó có sỏi thận.
Khái niệm nhịn ăn gián đoạn hay tránh ăn trong thời gian dài vào ban đêm đã trở nên phổ biến gần đây vì công dụng giảm cân hiệu quả. Mặc dù được coi là một “chế độ ăn kiêng” nhưng nhịn ăn gián đoạn có thể là cách tổ tiên đời trước ăn trong nhiều năm trước khi nguồn thức ăn trở nên dồi dào như hiện nay.
Một nghiên cứu năm 2016 được công bố trên JAMA đã xem xét nguy cơ tái phát ở những người mắc bệnh ung thư vú giai đoạn đầu trong thời gian 7 năm. Trong nghiên cứu trên 2.400 người này, những người “nhịn ăn” qua đêm từ 13 giờ trở lên có tỷ lệ tái phát ung thư vú thấp hơn 36% so với những người nhịn ăn dưới 13 giờ. [4]
Ngoài việc phòng ngừa ung thư vú tái phát, những người thực hành nhịn ăn ban đêm kéo dài còn có mức HgA1C thấp hơn đáng kể, thước đo lượng đường trong máu trung bình trong khoảng thời gian 3 tháng. Mức protein phản ứng C (thước đo mức độ viêm) và chỉ số khối của cơ thể (BMI) cũng thấp hơn ở nhóm nhịn ăn vào ban đêm.
Người bệnh ung thư vú có chế độ ăn nhiều rau, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt, cá và thịt gia cầm (so với chế độ ăn nhiều đường, ngũ cốc tinh chế, thực phẩm giàu chất béo và thịt đã qua chế biến) có tỷ lệ sống tốt hơn. Có nhiều chất dinh dưỡng thực vật (hóa chất có nguồn gốc thực vật) trong thực phẩm, một số chất trong đó có đặc tính chống ung thư. Chứng tỏ sự kết hợp của các chất dinh dưỡng có trong những thực phẩm này mới là yếu tố then chốt chứ không phải bất kỳ loại thực phẩm cụ thể nào.
Để hiểu điều này, cần nhận ra rằng tế bào ung thư rất “thông minh”. Không giống như quan niệm phổ biến về bệnh ung thư, các khối u không những không thay đổi mà liên tục tiến triển những đột biến mới. Một số đột biến này giúp khối u phát triển, tránh được cái chết (apoptosis). Những chất khác giúp khối u lan rộng hoặc ngăn chặn nỗ lực loại bỏ tế bào (hệ thống miễn dịch) của cơ thể.
Tế bào ung thư có nhiều cách để tiếp tục tồn tại và phát triển (ngay cả khi bị ẩn), sự kết hợp của các chất dinh dưỡng lành mạnh mang đến cơ hội tốt nhất để giữ sức khỏe, phòng ngừa ung thư vú tái phát, đẩy lùi ung thư.
Các loại vi khuẩn có trong ruột và sự đa dạng của các vi khuẩn đó đóng vai trò giảm cân, cải thiện tâm trạng, phòng ngừa ung thư vú tái phát và cả cách đối phó với bệnh ung thư. Vi khuẩn đường ruột tạo ra vô số sản phẩm nhằm cố gắng khôi phục hệ vi sinh vật (men vi sinh).
Thật không may, ít nhất với người bệnh chưa dùng thuốc kháng sinh, men vi sinh có thể không phải là giải pháp phù hợp và ăn một chế độ ăn uống lành mạnh sẽ thích hợp hơn. Thành phần của hệ vi sinh vật đường ruột có mối tương quan chặt chẽ với phản ứng của các loại thuốc trị liệu miễn dịch điều trị ung thư. Trong đó, sự đa dạng của vi khuẩn quan trọng hơn bất kỳ chủng vi khuẩn cụ thể nào và các chế phẩm sinh học thậm chí có thể làm giảm sự đa dạng của vi khuẩn đường ruột thông qua việc pha loãng.
Vấn đề ăn uống để cải thiện các loại vi khuẩn đường ruột cũng như sự đa dạng còn tương đối mới. Tuy nhiên, có một thứ dường như luôn có ích trong phòng ngừa ung thư vú tái phát là chất xơ. Chất xơ (cả hòa tan và không hòa tan) có thể gọi là “prebiotic” hoặc thực phẩm nuôi dưỡng vi khuẩn trong ruột. Những lựa chọn tốt bao gồm các loại thực phẩm như: tỏi tây, hành tây, tỏi được chế biến đúng cách, chuối, bơ và các thực phẩm khác.
Rượu có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú và ngay cả một lượng rượu vừa phải cũng có thể làm tăng nguy cơ tái phát. Vì vậy, không sử dụng rượu bia để phòng ngừa ung thư vú tái phát.
Theo một nghiên cứu năm 2017, những phụ nữ chuyển giới gặp khó khăn khi ngủ thường xuyên, cũng như những người có thời gian ngủ kéo dài (9 giờ trở lên so với ngủ 8 giờ) có tỷ lệ tử vong do ung thư vú cao hơn.
Có nhiều loại rối loạn giấc ngủ khác nhau và được giải quyết theo những cách khác nhau. Với người mới bắt đầu, thực hành thói quen tạo giấc ngủ tốt đôi khi có thể giải quyết các vấn đề nhỏ về giấc ngủ.
Tuy nhiên, nếu vấn đề vẫn tiếp diễn, người bệnh nên nói chuyện với chuyên gia về giấc ngủ. Nhiều người nghĩ giấc ngủ không quan trọng (ngoài việc cảm thấy mệt mỏi sau một đêm thiếu ngủ), nhưng xét đến mối liên hệ giữa rối loạn giấc ngủ và khả năng sống sau điều trị ung thư vú, giấc ngủ có vai trò quan trọng, được xem như phương pháp điều trị chống lại ung thư, phòng ngừa ung thư vú tái phát.
Ngày nay, gần như tất cả mọi người đều bị căng thẳng, điều này không phải điều tốt cho người bệnh sau điều trị ung thư vú. Căng thẳng có thể dẫn đến việc giải phóng hormone norepinephrine, có tác dụng kích thích sự hình thành mạch máu cho các khối u (sự hình thành các mạch máu mới cho phép khối u tiến triển) và đẩy nhanh quá trình di căn (sự lây lan của tế bào ung thư).
Việc bị căng thẳng chỉ đơn giản là cảm thấy tồi tệ, người bệnh nên dành chút thời gian tìm hiểu về căng thẳng, một số kỹ thuật để quản lý căng thẳng nhanh chóng và suy nghĩ những cách giảm thiểu vĩnh viễn các tác nhân gây căng thẳng trong cuộc sống, phòng ngừa ung thư vú tái phát.
Các hóa chất mà con người tiếp xúc, từ chất tẩy rửa gia dụng đến mỹ phẩm, có thể đóng một vai trò trong nguy cơ hình thành và tái phát ung thư vú. Tuy nhiên, rất khó để nghiên cứu các loại hóa chất có khả năng gây hại cho cơ thể hay không.
Một số hợp chất, chẳng hạn như:
PCB (polychlorinated biphenyls) có thể làm tăng nguy cơ tái phát. Một số khác có thể thay đổi sự điều hòa các gen liên quan đến sự phát triển của tế bào, quá trình chết theo chương trình (sự chết của tế bào)…
Các hóa chất gây rối loạn nội tiết (như paraben và phthalates) có thể bắt chước chức năng của hormone trong cơ thể và nên tránh sử dụng hormone estrogen để giảm tái phát ung thư vú, ít nhất là với những người có khối u dương tính với hormone.
Điều quan trọng cần lưu ý là tránh tiếp xúc với hóa chất được chứng minh là đáng lo ngại. Hầu hết các chất tẩy rửa gia dụng đều có thể dễ dàng thay thế bằng baking soda, nước chanh và giấm (rẻ hơn hóa phẩm bán sẵn).
Có nhiều trang web giúp tìm kiếm độ an toàn của hàng nghìn sản phẩm (thang điểm từ 1-10 dựa trên độc tính). Và việc trồng thêm một số cây trồng trong nhà giúp hấp thụ nhiều chất gây ung thư trong không khí (không khí trong nhà có nhiều mối lo ngại hơn ô nhiễm không khí ngoài trời), phòng ngừa ung thư vú tái phát.
Khi đang sống chung với bệnh ung thư vú, người bệnh không thể đợi vài thập kỷ để xem liệu loại hóa chất đó có gây hại cho bản thân hay không. Nhưng ngay cả khi tất cả đều vô hại, việc giảm tiếp xúc với môi trường có hại giúp tiết kiệm chi phí chữa các bệnh khác cho người bệnh.
Việc thường xuyên kiểm tra vú và vùng ngực có thể giúp phòng ngừa ung thư vú tái phát trước khi tế bào ung thư di căn hoặc khối u di căn tương đối nhỏ và dễ điều trị hơn.
Phụ nữ sử dụng liệu pháp hormone mãn kinh estrogen cộng với progestin (MHT) có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn.
Sau khi kết thúc quá trình điều trị ung thư, người bệnh vẫn cần đến gặp bác sĩ để khám tầm soát định kỳ, phòng ngừa ung thư vú tái phát. Bác sĩ có thể lên lịch hẹn vài tháng một lần sau điều trị để theo dõi chặt chẽ mọi thay đổi cũng như dấu hiệu ung thư tái phát. Sau 5 năm kể từ lần điều trị cuối cùng, người bệnh có thể chỉ cần tái khám 1 lần/năm.
Nếu đã cắt một phần vú trong quá trình điều trị ung thư, người bệnh có thể cần chụp nhũ ảnh để kiểm tra ung thư vú 6-12 tháng/lần. Nếu đã cắt bỏ cả 2 vú, người bệnh không cần chụp nhũ ảnh.
Tùy vào giai đoạn và loại ung thư mắc phải, số lần theo dõi có thể khác nhau. Điều quan trọng là không được bỏ qua hoặc bỏ lỡ các đợt tái khám vì ung thư có nhiều khả năng tái phát trong vòng 2 năm sau điều trị.
Phẫu thuật cắt bỏ vú 1 bên hoặc cả 2 bên (loại bỏ gần như toàn bộ mô vú) giúp phòng ngừa ung thư vú tái phát.
Sau khi hoàn tất quá trình điều trị ung thư, nếu người bệnh có nguy cơ cao tái phát ung thư, bác sĩ có thể kê một số loại thuốc để giảm nguy cơ. Tamoxifen giảm khoảng 40% nguy cơ ung thư vú tái phát ở những phụ nữ đã được điều trị ung thư vú giai đoạn đầu, dương tính với thụ thể hormone. Thuốc này ngăn chặn estrogen trong các tế bào vú.
Sau khi hoàn tất quá trình điều trị ung thư, nếu người bệnh có nguy cơ cao tái phát ung thư, bác sĩ có thể kê đơn một số loại thuốc để giảm nguy cơ, trong đó có tamoxifen. Các bác sĩ thường kê đơn thuốc này để phòng ngừa ung thư vú tái phát ở những phụ nữ đã được điều trị ung thư vú giai đoạn đầu, dương tính với thụ thể hormone. Thuốc này ngăn chặn estrogen trong các tế bào vú. Các nghiên cứu cho thấy thuốc này có thể làm giảm nguy cơ ung thư vú tái phát khoảng 40%.
Thuốc ức chế Aromatase, bao gồm anastrozole (Arimidex) và exemestane (Aromasin); có tác dụng giảm nồng độ estrogen trong cơ thể, phòng ngừa ung thư vú tái phát. Loại thuốc này chủ yếu ở dạng viên uống hàng ngày, kê cho phụ nữ sau mãn kinh trong 5-10 năm nếu có nguy cơ hình thành cục máu đông và không thể dùng tamoxifen.
Tác dụng phụ có thể bao gồm: khí hư âm đạo; đau cơ và khớp; bốc hỏa và đổ mồ hôi đêm. Những loại thuốc này cũng có thể đẩy nhanh quá trình loãng xương và làm tăng cholesterol.
Chẩn đoán phòng ngừa ung thư vú tái phát giống với khi chẩn đoán ung thư vú, bao gồm các phương pháp sau:
Cần phẫu thuật để giảm nguy cơ ung thư khi người bệnh có yếu tố di truyền như đột biến BRCA, làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư tái phát. Với những phụ nữ lo lắng về nguy cơ tái phát, việc cắt bỏ vú thay vì phẫu thuật bảo tồn vú cộng với xạ trị chỉ làm giảm nguy cơ tiến triển ung thư vú tái phát ở cùng một bên vú, không làm giảm nguy cơ ung thư tái phát ở các bộ phận khác của cơ thể, bao gồm cả bên vú đối diện.
Sau khi hoàn tất quá trình điều trị ung thư, nếu có nguy cơ cao tái phát ung thư, bác sĩ có thể kê đơn một số loại thuốc để phòng ngừa ung thư vú tái phát.
Cần tầm soát phòng tránh ung thư vú tái phát sau khi điều trị ban đầu. Mặc dù phương pháp điều trị ban đầu nhằm mục đích loại bỏ tất cả các tế bào ung thư, nhưng một số ít tế bào có thể “trốn tránh” điều trị và sống sót, chúng nhân lên, trở thành ung thư vú tái phát.
Khoảng 40% số người được chẩn đoán mắc bệnh ung thư vú bộ ba âm tính giai đoạn đầu có khả năng tái phát và ở người bệnh ung thư vú dạng viêm là 50%. 2 loại ung thư vú này có nhiều khả năng tái phát hơn các loại ung thư vú khác.
Ung thư vú tái phát xảy ra khi các phương pháp điều trị không loại bỏ hết các tế bào ung thư trong vú. Việc điều trị có thể làm thu nhỏ khối u đến mức các xét nghiệm không phát hiện ra tế bào ung thư yếu. Nhưng các tế bào vẫn ở đó và trở lại mạnh mẽ hơn theo thời gian, bắt đầu phát triển và tạo thành khối u.
Phẫu thuật cắt bỏ khối u không phải lúc nào cũng hiệu quả phòng ngừa ung thư vú tái phát 100%. Trước khi phẫu thuật, các tế bào ung thư có thể di chuyển từ vú đến các hạch bạch huyết, mô gần đó hoặc vào máu của người bệnh.
Có một số quan niệm sai lầm về những gì có thể làm giảm nguy cơ tái phát ung thư vú. Trong một số trường hợp, mặc dù nguy cơ tái phát vẫn chưa rõ ràng nhưng những cách trên giúp chất lượng cuộc sống của người bệnh được cải thiện. Và sống khỏe mạnh với bệnh ung thư cũng quan trọng như việc kéo dài cuộc sống của người bệnh.
Một số người hoàn toàn làm đúng mọi việc nhưng bệnh ung thư vú vẫn tái phát. Tương tự, một số người ăn uống kém, hút thuốc và uống nhiều rượu nhưng không bao giờ tái phát ung thư. Mặc dù có thể phòng ngừa ung thư vú tái phát ở một mức độ nào đó, nhưng việc đối phó với bệnh ung thư vú là đối phó với một bản sao tế bào bị đột biến không tuân theo các quy tắc.
Phòng ngừa và điều trị ung thư vú tái phát tại Khoa Ngoại vú, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh TP.HCM với hệ thống trang thiết bị hiện đại, đội ngũ chuyên gia nhiều kinh nghiệm, làm việc phối hợp đa chuyên khoa như Chẩn đoán hình ảnh - Giải phẫu bệnh - Nội khoa Ung thư. Từ đó mang đến cơ hội điều trị tốt cho những người bệnh liên quan đến tuyến vú nói chung.
Khả năng ung thư vú tái phát thật đáng sợ và một số việc người bệnh có thể tự làm (ngoài việc sử dụng các loại thuốc do bác sĩ ung thư kê đơn) như tập thể dục, ăn uống lành mạnh… giúp tiếp thêm sức mạnh cho bản thân trong hành trình điều trị cũng như phòng ngừa ung thư vú tái phát.
Link nội dung: https://vinaenter.edu.vn/xem-vu-to-a51164.html