Cùng Phượt - Bắc Kạn là tỉnh giàu tiềm năng du lịch bởi sự phong phú của tài nguyên, khoáng sản và nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc miền núi đông bắc Việt Nam. Tại đây có vô số các danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp được hình thành từ thiên nhiên như hang động, hồ nước ngọt, rừng nguyên sinh….Cùng nhiều di tích lịch sử lâu đời gắn liền với nhiều sự kiện lịch sử. Cùng với đó tại Bắc Kạn cũng tồn tại vô số các hang động tự nhiên với vẻ đẹp mê hồn đối với các du khách ưa thích khám phá, mạo hiểm. Bắc Kạn còn thu hút du khách bởi hình thức du lịch cộng đồng, sinh sống và tìm hiểu phong tục văn hóa cùng với đồng bào các dân tộc. Tuy hiện nay du lịch Bắc Kạn chưa phát triển nhưng cũng là một trong những địa điểm hấp dẫn vùng Đông Bắc mà các bạn không nên bỏ qua.
Cách Hà Nội khoảng 250km, Vườn Quốc gia Ba Bể có hiện tích hơn 10.000 ha, có cấu tạo địa chất đặc biệt, nhiều núi cao, hang động, sông hồ, suối ngầm tạo nên cảnh quan đặc biệt hấp dẫn. Đây cũng là nơi bảo tồn các nguồn gen động thực vật quý hiếm. Với hơn 20 điểm tham quan hấp dẫn cùng các tuyến du lịch đi bộ trong rừng nguyên sinh, các bản làng du lịch văn hóa ..Vườn Quốc gia Ba Bể là một địa điẻm du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng hấp dẫn.
Hồ Ba Bể nằm ở trung tâm Vườn quốc gia Ba Bể, ở độ cao 150m so với mực nước biển, cách Thành phố Bắc Kạn 70 km về phía tây bắc. Hồ Ba Bể là một trong những di tích danh thắng tự nhiên đẹp, độc đáo nhất Việt Nam.
Hồ được hình thành do sự biến động cấu tạo địa chất cách đây hàng triệu năm làm sụt lún các dãy núi đá vôi, hang động. Hồ được hợp thành từ ba hồ (Pé Lèng, Pé Lù, Pé Lầm) nên có tên gọi là hồ Ba Bể. Hồ có chiều dài hơn 8km, chỗ rộng nhất 2km, diện tích mặt nước 500ha, độ sâu trung bình 20m, chỗ sâu nhất 35m, trên hồ có những hòn đảo nhỏ xinh đẹp, trong hồ có hàng trăm loài cá nước ngọt sinh sống, trú ngụ.
Do cấu tạo địa chất đặc biệt nên hồ Ba Bể có những nét riêng rất khác biệt so với các hồ cacxtơ trên thế giới. Vì vậy Hội nghị quốc tế về hồ nước ngọt tổ chức tại Mỹ tháng 3 năm 1995 đã xếp hồ Ba Bể là 1 trong 20 hồ nước ngọt tự nhiên đẹp của thế giới cần được bảo vệ. Năm 2012, hồ Ba Bể được công nhận là Di tích danh thắng Quốc gia đặc biệt.
Không biết từ bao giờ, dòng sông Năng hiền hòa là thế mà đục thủng cả vách núi đá vôi để tạo thành một dòng chảy với những hang động kỳ vĩ. Nhiều người còn ví động Puông như hàm cá mập khổng lồ há miệng nuốt từng áng thuyền độc mộc cứ nối đuôi nhau xuôi dòng.
Động Puông thuộc xã Cao Thượng, Ba Bể. Là một hang thông hai đầu, động Puông có chiều dài 300 mét, cao hơn 30 mét với các vách đá đứng và nhiều nhũ đá có nhiều hình dạng, màu sắc khác nhau, được hình thành khi con sông Năng chảy xuyên qua bên dưới núi đá vôi Lũng Nham tạo nên một cảnh quan đá vôi rất ngoạn mục với lối vào ra thông thoáng cho dòng sông Năng tự do lưu chuyển. Cửa động nơi đây vút đứng và khá phẳng, tưởng như ai đó đã buông một nhát chém ngọt ngào vào khối đá mềm từ hàng triệu năm trước. Do có nhiều ánh sáng mà từ phía bên ngoài động đã lộ hiện những mảng đá hoa cương từng bị che lấp bởi những thảm rêu xanh theo thời gian. Bên trong động, những dải thạch nhủ hình thù kỳ lạ rủ xuống soi bóng lung linh trên dòng nước. Càng vào sâu bên trong, tuy lòng động khá tối nhưng vẫn đủ sức hấp dẫn du khách bởi trên vòm động có cả hàng vạn con dơi đang sinh sống hay trú chân. Thuyền bè có thể đi trên sông Năng xuyên qua động Puông.
Thác Đầu Đẳng nằm giữa hai dãy núi đá vôi trên dòng sông Năng, nơi tiếp giáp giữa Bắc Kạn và Tuyên Quang. Sông Năng sau khi luồn dưới núi Lũng Nham tạo thành động Puông, khi chảy đến bản Húa Tạng thì bị chặn lại bởi hàng trăm tảng đá lớn, nhỏ xếp chồng lên nhau với độ dốc chừng 500m, tạo thành một thác nước kỳ vĩ ba bậc, mỗi bậc thác cách nhau từ 3-4m theo chiều dài. Khu vực này cũng là nơi xuất hiện loại cá chiên, một trong những loài cá hiếm thấy hiện nay với nhưng con có cân nặng hàng chục kg.
Nằm ở góc “hồ ba” của Hồ Ba Bể, Ao Tiên là một hồ nước nhỏ xinh xắn nằm lọt giữa lòng chảo đá vôi biệt lập với hồ chính. Từ bờ hồ chỉ đi bộ một chút là bạn có thể tới được ao. Ao được nuôi dưỡng bởi nước ngầm thấm qua đá ở xung quanh, làm cho Ao Tiên có cùng mực nước với Hồ Ba Bể.
Ao Tiên là nơi ở của một số loài cá địa phương và các động vật dưới nước khác. Những người đánh cá địa phương thỉnh thoảng đến đây đánh bắt cá, mặc dù chắc chắn rằng đây là nơi dành cho sự yên tĩnh và tách biệt hơn là để hy vọng đánh bắt lớn. Giống như các đặc trưng riêng biệt của Ba Bể, Ao Tiên gợi lên truyền thuyết địa phương; cái tên “Ao Tiên” muốn nói đến một câu chuyện về một người thợ săn trong lúc qua Ao Tiên đã bị hút hồn bởi vẻ đẹp của các nàng tiên đang tắm trong ao.
Đảo Bà Góa (Tiếng địa phương là Pò Giả Mải) hòn đảo nhỏ xinh xắn nằm giữa hồ 1(Pé Lèng) của hồ Ba Bể. Đảo được tạo thành bởi những phiến đá to nhỏ, xếp chồng lên nhau, cây cối trên đảo xanh tốt quanh năm, rễ cây buông xuống ôm lấy những phiến đá, nhìn xa đảo như một hòn non bộ giữa mặt hồ.
Tương truyền đảo chính là nơi sinh sống của hai mẹ con bà góa tốt bụng năm xưa đã dùng vỏ trấu lấy từ hạt thóc bà Tiên cho tách làm đôi biến thành hai chiếc thuyền độc mộc đi cứu giúp dân lành trong trận đại hồng thuỷ hình thành hồ Ba Bể.
Đảo Bà Goá điểm du lịch hấp dẫn, viên ngọc xanh in bóng lung linh giữa hồ nước trong xanh, nơi lý tưởng dành cho du khách tham quan và chụp những bức hình kỷ niệm về chuyến đi đến với khu du lịch vườn Quốc Gia Ba Bể, Bắc Kạn.
Bản du lịch văn hoá Pác Ngòi, xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể là bản nhà sàn của đồng bào dân tộc Tày bên bờ sông Lèng sát với hồ Ba Bể. Bản có hơn 80 hộ dân với gần 400 nhân khẩu. Đặc biệt dân trong bản đều là người Tày.
Bản Pác Ngòi hiện còn một số ngôi nhà sàn cổ, lợp ngói máng âm dương, kiểu dáng kiến trúc độc đáo. Người dân trong bản bao đời nay sinh sống bằng nghề trồng lúa, ngô ở các bãi bồi ven sông và đánh bắt cá tôm trên hồ Ba Bể. Hiện nay đa số các hộ dân trong bản đều tham gia các hoạt động kinh doanh dịch vụ phục vụ khách du lịch.
Đến với bản Pác Ngòi bạn sẽ được trải nghiệm và thưởng thức những món ăn ngon đặc sản của vùng hồ (Cơm lam, cá nướng, tép chua, thịt chua, dạ yến, xôi ngũ sắc….); ngủ nhà sàn; tham quan hồ bằng thuyền độc mộc; đánh bắt cá trên sông, hồ; xem các thiếu nữ Tày biểu diễna hát then đàn tính và cùng người dân nơi đây đi tham quan các bản làng dân tộc vùng hồ Ba Bể và mua các sản phẩm đặc sản của địa phương.
Động Hua Mạ là một thắng cảnh thuộc khu vực vườn quốc gia Ba Bể. Hang nằm bên dòng sông Lèng và thuộc bản Pắc Ngòi, xã Quảng Khê, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Động Hua Mạ nằm ở lưng chừng ngọn núi Cô Đơn nằm giữa khu Lèo Pèn (Rừng Ma) cây cối xanh rì, rậm rạp. Động Hua Mạ ăn sâu vào lòng núi theo hướng Đông - Nam quanh năm u tịch và được người dân bản địa gọi là hang Lèo Pèn.
Theo truyền thuyết của cư dân địa phương, Rừng Ma xưa kia là nơi ma quỷ ngự trị, sau đó có một vị tướng triều đình đi tuần thú qua đây và đã nghe được tiếng hú của những oan hồn của dân binh đã cùng triều đình chống giặc không được siêu thoát, quan quân liền hạ trại ngay cạnh bờ sông Lèng và mổ ngựa, lấy đầu ngựa làm lễ tế trời đất. Sau khi tế lế, những tiếng hú biến mất và qua năm tháng đã mọc lên những khối nhũ đá rất đặc biệt kỳ vĩ. Từ đó người ta gọi sơn động “Lèn Pèn” là động Hua Mạ hay tiếng địa phương gọi là hang Đầu Ngựa.
Chân núi Cô Đơn nằm ở độ cao 350 m so với mực nước biển. Đường từ chân núi đến cửa động đã được xây thành những bậc thang, du khách phải leo núi 300 mét là đến Động Hua Mạ, cửa động rộng 3 mét, cao 5 mét. Động Hua Mạ có lòng hang rất rộng khoảng 1ha, chiều dài tới hơn 700m, trần động có chỗ rộng và cao tới 40 - 50m, chứa đựng nhiều vách, nhũ đá kỳ vĩ. Động Hua Mạ mới chỉ được khảo sát du lịch vào năm 2003-2004 và hiện vẫn chưa phát triển nhiều về dịch vụ du lịch cũng như số lượng du khách.
Thác Bạc nằm ở địa bàn xã Hoàng Trĩ thuộc vùng đệm Vườn Quốc gia Ba Bể. Từ đỉnh đèo Khau Vàng nhìn Thác Bạc như một dải lụa trắng, là điểm du lịch lý tưởng cho những ngày hè oi bức.
Thác có chiều cao khoảng 40m, có vách đá gần như thẳng đứng, ẩn trong màu xanh của rừng cây, phía dưới có các vũng nước trong vắt cùng với những hòn đá to, thoai thoải, bạn có thể tắm, hưởng thụ một không gian yên bình tại đây. Dòng chảy của nước hiền hòa mà cuồn cuộn đổ xuống từ trên cao, đập mạnh vào những tảng đá dưới chân thác làm tung lên hàng ngàn bọt nước trắng xóa. Cảm giác được ngâm mình thư giãn trong dòng nước mát rượi, bao mệt nhọc sẽ tan biến, chỉ còn lại sự thư thái đầy sảng khoái. Thác Bạc mang vẻ đẹp của thiên nhiên hoang sơ thuần khiết. Ngắm thác bạc, bạn như được đi vào một không gian thiên nhiên mênh mông, dù đã được Vườn Quốc gia Ba Bể đưa vào khai thác du lịch nhưng không gian nơi đây vẫn còn rất hoang sơ. Nước của con thác từ dòng suối đổ về, những khối đá chắn lại tạo thành những tầng bậc. Lúc thì dịu dàng lách qua những hòn đá để chảy về hạ nguồn, lúc thì tuôn trào dữ dội. Vào mùa mưa, nước từ trên cao đổ xuống tạo thành cuộn sóng lớn, không khí mát rượi, thiên nhiên thuần khiết, hiện nay thác được nhiều bạn tìm đến tham quan tắm mát trong những ngày hè.
Đứng ở dưới thác tầng một nhìn lên, bạn sẽ thấy thác đẹp như một bức tranh nhiều màu sắc, màu trắng trong tinh khiết của nước, màu tím, hung của đá, xen lẫn với màu xanh của cây rừng, tất cả sẽ làm bạn ấn tượng khó quên biết nhường nào. Nghỉ ngơi một lát, bạn đi tiếp đến điểm thác tầng 2 là điểm lý tưởng để thưởng thức dòng nước sạch trong mát và có thể dùng lực chảy của dòng nước để mát-xa đôi bàn chân sau chặng đường dài. Đến Thác Bạc, bạn sẽ cảm nhận được sự hùng vĩ trong sự bình yên, hoang sơ của núi rừng, không khí trong lành, tinh khiết mà man mác hương hoa rừng, tất cả sẽ là những giây phút khó quên để một lần đến rồi lại muốn nhiều lần đến nữa.
Đền An Mã (An Mạ) toạ lạc trên đảo An Mã giữa hồ Ba Bể. Đây là ngôi đền cổ được trung tu xây dựng lại năm 2007. Đền thờ Phật, Mẫu Thượng Ngàn, Chúa Sơn Trang, Đức Thánh Trần….
Tương truyền đền là nơi thờ các vị trung thần nhà Mạc trong cuộc chiến tranh phong kiến thời Lê Mạc, sau khi bị thua trận đã chạy đến động Puông rồi tuẫn tiết tại đó. Để tưởng nhớ các vị trung thần, người dân nơi đây đã dựng đền thờ họ Mạc, song sợ bị quan quân nhà Lê trả thù nên đã đổi tên thành đền thờ họ Ma. An Mạ theo tiếng dân tộc Tày có nghĩa là “mồ yên mả đẹp” nơi yên nghỉ của các trung thần họ Mạc.
Đền An Mã là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của người dân địa phương, khách thập phương và cũng là nơi dâng lễ hội xuân Ba Bể tổ chức vào ngày 10 tháng giêng. Hội đền An Mã được tổ chức vào ngày 6 tháng hai âm lịch hàng năm
Với địa hình khu vực hiểm trở, nên trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, động Nả Phoòng được chọn là nơi đặt trụ sở Đài Tiếng nói Việt Nam (1950 - 1954)
Động Nàng Tiên thuộc xã Lương Hạ, huyện Na Rì, cách thị trấn Yến Lạc 5 km về phía đông, động sâu hơn 200m, trần động chỗ cao nhất khoảng 30m, lòng động rộng trung bình 20m, trong động có nhiều nhũ đá đẹp.
Cùng với thời gian hàng triệu triệu năm do sự bào mòn và lắng đọng của nước trong núi đá vôi đã tạo thành những khu ruộng bậc thang tuyệt đẹp. Đặc biệt trong động còn có một vòm đá rộng, bên trong có một phiến đá lớn phẳng, kích thước như một chiếc gường, xung quanh nhũ đá rủ xuống như tấm rèm mềm mại, lấp lánh tựa như căn phòng ngủ lộng lẫy. Tương truyền các tiên nữ nhà trời khi ghé thăm trần gian đã nghỉ lại tại căn phòng này, nên động có tên gọi là động Nàng Tiên như hiện nay.
Thác Nà Khoang nằm cách trung tâm thị trấn Nà Phặc, huyện Ngân Sơn khoảng 6 km. Thác nằm ở chân Đèo Gió, cạnh quốc lộ 3 và khu vực thác có diện tích khoảng 12 ha. Thác Nà Khoang là nơi hợp thành của hai con suối lớn, suối Nà Đeng chảy qua khe núi Lũng Chang, một con suối nhỏ bắt nguồn từ đỉnh núi Phia Sliểng chảy từ hướng Tây Nam xuống khoảng 88 m thì hợp thủy với dòng suối Nà Đeng, với độ dốc lớn đã tạo thành hệ thống thác 4 tầng dài khoảng 600m, chiều rộng trung bình 15m, sau đó chảy xuống suối Bản Mạch. Phía trên thác còn có một hồ nước nhỏ trong xanh có thể sử dụng làm nơi bơi lội.
Đèo Gió nằm trên trục đường Quốc lộ 3 đoạn từ Bắc Kạn lên Cao Bằng, cách thành phố Bắc Kạn 50km và cách trung tâm huyện Ngân Sơn khoảng 10km. Với độ cao 800m so với mực nước biển, Đèo Gió thường xuyên có sương phủ quanh năm. Đây là điểm nghỉ chân trên chặng đường du lịch Cao Bằng, các bạn có thể mua rất nhiêu các loại nông lâm thổ sản của Bắc Kạn tại đây.
Hồ Bản Chang thuộc địa phận xã Đức Vân, cách Trung tâm huyện lỵ huyện Ngân Sơn 6 Km về phía nam, giáp với tuyến Quốc lộ số 3 đường đi Cao Bằng. Là một hồ nước tự nhiên tuyệt đẹp, có hình bán nguyệt, địa thế lý tưởng, nằm trong thung lũng, với diện tích mặt Hồ khoảng 5ha, xung quanh là những cánh rừng thông bạt ngàn, khí hậu đặc biệt trong lành mát mẻ; phù hợp để đầu tư phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng và các hoạt động du lịch tập thể như: chèo thuyền, bơi lội, câu cá, cắm trại…
Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ nằm trên địa bàn các xã Kim Hỷ, Lương Thượng, Lạng San, Ân Tình, Côn Minh của huyện Na Rì và xã Cao Sơn, Vũ Muộn của huyện Bạch Thông. Tổng diện tích 14.772 ha.
Do địa hình núi đá dốc chia cắt mạnh, nên trong Khu bảo tồn có nhiều hang động, suối ngầm, tạo ra một vùng cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, không chỉ phục vụ nhu cầu nghiên cứu, bảo tồn các loài gen quý hiếm mà còn đáp ứng nhu cầu khám phá thiên nhiên của khách du lịch.
Di tích lịch sử Nà Tu thuộc xã Cẩm Giàng, huyện Bạch Thông, nằm cạnh quốc lộ 3, cách thị xã Bắc Kạn 9km về phía bắc. Đây là nơi đóng quân của phân đội thanh niên xung phong 312 làm nhiệm vụ bảo vệ cầu Nà Cù và đoạn đường Nà Cù - Phủ Thông trong thời kỳ chống Pháp.
Đồn Phủ Thông, cách ngã ba Phủ Thông 300m (điểm giao nhau giữa đường quốc lộ 3 và đường 258 ) thuộc thị trấn Phủ Thông, huyện Bạch Thông, cách thành phố Bắc Kạn 18 km về phía bắc. Đây là nơi quân đội Pháp chiếm đóng và xây đồn kiên cố từ năm 1947.
Đèo Giàng nằm trên trục đường quốc lộ 3 đoạn từ Bắc Kạn đi Cao Bằng (Giáp gianh giữa 2 huyện Bạch Thông và huyện Ngân Sơn của tỉnh Bắc Kạn), cách thành phố Bắc Kạn 24km về phía bắc.
Đây là nơi diễn ra trận đánh của trung đoàn Thủ Đô phá hủy toàn bộ xe cơ giới của quân Pháp trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947.
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, cùng với các huyện Đại Từ, Định Hoá (Thái Nguyên), Sơn Dương, Chiêm Hoá (Tuyên Quang), huyện Chợ Đồn đã được Trung ương Đảng, Bác Hồ chọn làm an toàn khu cho cuộc kháng chiến.
Trong thời gian từ năm 1947 đến 1952, hầu hết các cơ quan Trung ương đã đóng ở huyện Chợ Đồn như: Đài Tiếng nói Việt Nam, Cơ quan Vô tuyến điện, Nha kỹ thuật quân sự, Trường Quân chính, Xưởng quân giới, Xưởng in báo Cứu Quốc, Trạm phẫu thuật quân y…
Hiện nay quần thể di tích lịch sử ATK - Chợ Đồn với 06 di tích lịch sử cấp quốc gia (Bản Ca, Nà Pậu, Khuổi Linh, Bản Bẳng, Nà Quân, Đồi Khau Mạ), 04 di tích lịch sử cấp tỉnh (Nà Pay, Phja Tắc, Đồi Khuổi Đăm, Nà Kiến) và 16 di tích đã kiểm kê.
Hội xuân Ba Bể là lễ hội đầu năm của đồng bào các dân tộc vùng hồ Ba Bể, gồm 2 phần lễ và hội. Phần lễ được tổ chức cầu cho mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Phần hội gồm các chương trình văn nghệ dân gian hát then đàn tính, múa khèn…; các trò chơi dân gian như: Kéo co, đẩy gậy, tung còn, bắt vịt trên hồ, đua thuyền độc mộc, chọi bò, đấu võ dân tộc….
Lễ hội lồng tồng Bằng Vân được tổ chức tại xã Bằng Vân vào ngày 15 tháng giêng âm lịch hàng năm, gồm 2 phần lễ và hội.Phần lễ cầu cho mưa thuận, gió hòa, nhân an, vật thịnh, mùa màng bội thu, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Phần hội có các trò chơi dân gian như: Kéo co, tung còn, đẩy gậy, đi cầu thăng bằng, bịt mắt bắt dê; hát đối đáp giao duyên shi, lượn (Tày, Nùng), Páo dung (Dao)
Không nổi tiếng như chợ tình Khâu Vai ở Hà Giang hay chợ tình Sa Pa của Lào Cai, nhưng chợ tình Xuân Dương lại mang trong mình những nét văn hóa hết sức đặc trưng của cộng đồng các dân tộc Tày, Nùng huyện Na Rì, huyện Chợ Mới (Bắc Kạn) và các huyện lân cận của tỉnh Lạng Sơn và Thái Nguyên.
Chợ tình Xuân Dương bắt nguồn từ câu chuyện cảm động của đôi vợ chồng trẻ người dân tộc Tày yêu thương nhau hết mực, ở thôn Pác Sen, xã Xuân Dương, huyện Na Rì. Họ nên duyên vợ chồng từ những câu sli, câu lượn tại các lễ hội lồng tồng được tổ chức ở địa phương. Một ngày nọ, để chuẩn bị cho vụ mùa sắp tới, hai vợ chồng cùng nhau đi làm đồng, chồng thì cuốc đất ở đầu ruộng, còn vợ phát cỏ nơi cuối đồng. Đến trưa, mặt trời đứng bóng, người chồng đã thấm mệt, gọi vợ về nghỉ thì chỉ nghe tiếng núi rừng vọng lại. Chạy mãi mới tới đầu ruộng nơi vợ làm việc, người chồng chỉ thấy cán dao gẫy, cỏ cây nát trơ, là chứng tích của một cuộc vật lộn, xô đẩy còn sót lại. Mãi sau, chàng mới hay người vợ của mình đã bị đám người xấu bắt đi, chàng hiểu rằng nàng đã chống trả quyết liệt, kêu cứu trong sự vô vọng, bởi thửa ruộng quá dài, khoảng cách giữa hai người quá xa, nên chàng không thể nghe thấy để đến cứu vợ mình.
Biết chuyện, dân bản ai cũng tỏ lòng thương xót cho đôi vợ chồng trẻ. Từ đó, thửa ruộng ấy được người dân trong bản đặt tên là Nà Rỳ (ruộng dài) để nhớ về câu chuyện đầy cảm động của đôi vợ chồng trẻ ngoan hiền (Địa danh Nà Rỳ cũng được đặt làm tên của huyện, trải qua nhiều thế hệ người dân trong huyện dần đọc chệch đi thành huyện Na Rì như ngày nay). Sau này, gặp lại chồng cũ tại một phiên chợ, nàng mừng mừng, tủi tủi, nhưng cũng chỉ biết ôm nhau mà khóc chứ không thể hàn gắn lại tình xưa, vì mỗi người đều đã có gia đình riêng. Dân bản cảm động trước tình cảm ấy, nên để hai vợ chồng nọ có một ngày ôn lại chuyện xưa (đó là ngày 25/3 Âm lịch). Từ đó, ngày 25/3 âm lịch hằng năm đã trở thành ngày hội của những đôi nam và nữ trong vùng, để những người lỡ duyên trước đó được gặp nhau, ôn lại chuyện cũ.
Link nội dung: https://vinaenter.edu.vn/bac-kan-co-gi-noi-tieng-a44852.html