Để xác định bệnh tiểu đường cần làm xét nghiệm nào?

Bài viết được viết bởi ThS.BS Đỗ Thị Hoàng Hà - Bác sĩ Hóa sinh, Khoa Xét nghiệm - Bệnh viện đa khoa Quốc tế Vinmec Hải Phòng.

Biến chứng của bệnh Đái tháo đường (ĐTĐ) xảy ra sớm hay muộn phụ thuộc vào type bệnh và quá trình chẩn đoán chính xác, điều trị cũng như kiểm soát bệnh. Có hai loại biến chứng của ĐTĐ là cấp tính (tăng/giảm glucose máu quá mức, nhiễm toan-ceton) và mãn tính (rối loạn lipid, tổn thương các mạch máu nhỏ và các mạch máu lớn và một số biến chứng về da, hô hấp, tiêu hóa ..).

Như vậy để giúp các bác sĩ chẩn đoán xác định bệnh lý ĐTĐ, đưa ra phương án điều trị hợp, những xét nghiệm nào sẽ được khuyến cáo áp dụng?

Nhiễm toan-ceton là loại biến chứng cấp tính của bệnh đái tháo đường

1.Đái tháo đường tuýp I

Các dấu hiệu chỉ điểm cho bệnh là 5 loại tự kháng thể liên quan đến đái tháo đường (diabetes-associated autoantibodies: DAA) có thể gặp, đó là:

Gần 90% bệnh nhân tiểu đường type 1 có một hoặc nhiều hơn các kháng thể này tại thời điểm phát hiện ra bệnh. Bệnh nhân tiểu đường type 2 có nồng độ các chất này ở mức thấp hoặc không phát hiện được.

Nói chung, các tự kháng thể ICA, IAA, IA-2A và ZnT8 thường gặp ở đái tháo đường tự miễn khởi phát ở trẻ em, trong khi các tự kháng thể GADA và IA-2A, đặc biệt là GADA hay gặp ở đái tháo đường type I khởi phát muộn hơn.

Người bị viêm tuyến giáp Hashimoto có thể có kháng thể chống tế bào đảo tụy ICA liên quan đến đái tháo đường

Những kháng thể này có thể xuất hiện vài năm trước khi khởi phát triệu chứng. Khoảng 60-80% bệnh nhân có kết quả dương tính với xét nghiệm tìm kháng thể tự miễn kháng insulin hoặc tế bào đảo tụy sẽ bị tiểu đường phụ thuộc insulin trong vòng 10 năm, trong đó xét nghiệm GADA65 giúp đưa ra căn cứ xác định chẩn đoán ĐTĐ type I cũng như phân biệt giữa ĐTĐ type I và type II (trên những bệnh nhân ĐTĐ type I khởi phát muộn có thể gây nhầm lẫn giữa ĐTĐ type I và type II).

Tuy nhiên có một số điều lưu ý khi sử dụng các kháng thể tự miễn trong chẩn đoán ĐTĐ type I, đó là các xét nghiệm có thể bị ảnh hưởng nếu trong vòng 7 ngày trước khi xét nghiệm người bệnh có sử dụng các thuốc có đồng vị phóng xạ cũng như các kháng thể tự miễn phát hiện được trên trẻ em không giống với người lớn. Có hơn 50% bệnh nhân là trẻ em ĐTĐ type I dương tính với kháng thể kháng Insulin (IAA) trong khi hầu hết lại âm tính trên người trưởng thành.

Những bệnh nhân đã từng điều trị bằng Insulin cũng có thể sinh ra các kháng thể kháng insulin ngoại sinh (IAA). Xét nghiệm không thể giúp bác sĩ phân biệt được kháng thể mới sinh ra này và các kháng thể tự miễn, do đó người bệnh đã được điều trị bằng Insulin cũng không được khuyến cáo sử dụng xét nghiệm này.

Ngoài ra kháng thể chống tế bào đảo tụy ICA cũng có thể được tìm thấy trên những người mắc các bệnh lý nội tiết như viêm tuyến giáp Hashimoto hay bệnh Addison.

2.Đái Tháo đường tuýp 2

Chỉ số HbA1c kiểm soát bệnh tiểu đường

Để giúp các bác sĩ lâm sàng đưa ra chẩn đoán xác định ĐTĐ type II, các xét nghiệm sau được ưu tiên lần lượt sử dụng, cũng như kết hợp với các yếu tố nguy cơ đi kèm (tuổi ≥ 45, béo phì, có tiền sử gia đình mắc ĐTĐ type II, có các bệnh lý nền kèm theo như tăng huyết áp, mắc các hội chứng chuyển hóa ..).

Đặc biệt đối với các xét nghiệm Định lượng Glucose huyết thanh/ huyết tương lúc đói, Nghiệm pháp dung nạp glucose máu bằng đường uống và HbA1c cần có ít nhất một tiêu chuẩn thực hiện 2 lần cách nhau 24 giờ hoặc có 2 tiêu chuẩn trên cùng một mẫu máu.

3.Đái tháo đường thai kỳ

Nghiệm pháp dung nạp glucose cho phụ nữ mang thai bị đái tháo đường

ĐTĐ thai kỳ thường không có triệu chứng nên phải làm nghiệm pháp dung nạp glucose.

Trong nghiệm pháp dung nạp đường huyết cho phụ nữ mang thai (tuần 24-28 thai kỳ):

+ Glucose lần 1: < 5,3 mmol/l.

+ Glucose lần 2: < 10,1 mmol/l.

+ Glucose lần 3: < 8,6 mmol/l.

Theo tiêu chuẩn của Nhóm nghiên cứu của Hiệp hội Đái tháo đường và thai kỳ Quốc tế IADPSG (International Association of Diabetes and Pegnancy Study Groups) và Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ ADA (American Diabetes Association):

+ Nếu glucose máu lúc đói > 7,0 mmol/l thì thai phụ bị đái tháo đường lâm sàng.

+ Nếu một hoặc nhiều hơn các thông số ở cả 3 lần lớn hơn giá trị nêu trên là đái tháo đường thai kỳ.

+ Ở thai phụ bình thường, cả 3 thông số đều nhỏ hơn các giá trị nêu trên.

Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec là một trong những bệnh viện không những đảm bảo chất lượng chuyên môn với đội ngũ y bác sĩ giàu kinh nghiệm, hệ thống trang thiết bị công nghệ hiện đại. Bệnh viện cung cấp dịch vụ khám, tư vấn và chữa bệnh toàn diện, chuyên nghiệp, không gian khám chữa bệnh văn minh, lịch sự, an toàn và tiệt trùng tối đa. Khách hàng khi chọn thực hiện các xét nghiệm tại đây có thể hoàn toàn yên tâm về độ chính xác của kết quả xét nghiệm.

Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng.

Link nội dung: https://vinaenter.edu.vn/de-xac-dinh-a101757.html